Sáng ngày 09/11/2024 (nhằm ngày mồng 09 tháng 10 năm Giáp Thìn), , tại chùa Pháp Lâm số 574 Ông Ích Khiêm, phường Nam Dương quận Hải Châu Tp. Đà Nẵng, môn đồ pháp quyến đã long trọng tổ chức lễ tưởng niệm 13 năm Tôn sư vắng bóng, kỷ niệm húy nhật lần thứ 11 cố Hòa thượng – thượng Giác hạ Viên, nguyên Trưởng Ban Trị Sự GHPGVN thành phố Đà Nẵng, Trú trì chùa Pháp Lâm, khai sơn chùa Giác Hoàng Viên Tp. Đà Nẵng.
Quang lâm chứng minh niêm hương cầu nguyện có Hòa thượng Thích Trí Viên – Thành viên HĐCM – Chứng minh BTS GHPGVN Tp. Đà Nẵng; HT Thích Bửu Thiện; HT Thích Minh Thành – Đồng CM BTS Phật giáo thành phố Đà Nẵng; HT Thích Từ Nghiêm – UV HĐTS GHPGVN – Trưởng ban Trị sự GHPGVN Tp. Đà Nẵng; TT Thích Thông Đạo – UV HĐTS GHPGVN – Phó Trưởng ban thường trực BTS Phật Giáo tp. Đà Nẵng; Chư tôn đức thường trực BTS thành phố; Chư tôn đức BTS các quận huyện; Chư tôn đức Tăng, Ni trú trì các tự viện trên địa bàn thành phố; Môn đồ pháp quyến cùng phật tử xa gần đã về tham dự và góp phần cầu nguyện.
Cố Hòa thượng Thích Giác Viên – Nguyên Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN – Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN – Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo thành phố Đà Nẵng – Trú trì chùa Pháp Lâm – Khai sơn Tịnh thất Giác Hoàng Viên Đà Nẵng.
Hòa thượng họ Nguyễn, thế danh Nguyễn Đạt – pháp danh Nguyên Nhuận, pháp tự Giác Viên, pháp hiệu Long Hoa, đời thứ 44 dòng Thiền Lâm Tế Liễu Quán. Hòa Thượng thọ sanh năm Canh Ngọ (1930), trong một gia đình thâm tín Phật pháp tại làng Truồi, xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân phụ của Hòa Thượng là cụ ông Nguyễn Tân, thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Mãn. Hòa Thượng là trưởng nam trong gia đình gồm có 06 anh chị em.
Được sinh ra trong một gia đình thấm nhuần Phật pháp túc duyên hội đủ, nên năm 12 tuổi được sự ái hộ của song thân, Ngài phát tâm xuất gia cầu Đạo với Đại lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển, Trú trì chùa Trúc Lâm trực thuộc Tổ đình Tây Thiên, tỉnh Thừa Thiên Huế. Sau một thời gian tu học, Hòa Thượng tiếp tục cầu pháp với Đại lão Hòa Thượng Thích Thiện Siêu tại chùa Từ Đàm và được ban Pháp tự là Giác Viên. Tại đây Ngài chuyên tâm tu học trao dồi giới đức dưới sự giáo dưỡng của Hòa Thượng Y chỉ sư. Năm 1966 Ngài được Hòa Thượng y chỉ sư giới thiệu vào Đà Nẵng tu học tại chùa Báo Ân. Năm 1968, với nhân duyên hội đủ, hòa thượng được thọ Cụ Túc giới tại Đại Giới đàn Phật Học Viện Hải Đức – Nha Trang và được ban Pháp hiệu là Long Hoa.
Năm 1968, Hòa Thượng được cử làm Tri sự Phật Học viện Phổ Đà.
Năm 1971, Hòa Thượng được thỉnh cử trú trì chùa Tân Ninh. Năm 1973, Ngài được thỉnh cử trú trì chùa Thanh Bình. Năm 1975, Hòa Thượng được thỉnh cử trú trì chùa Pháp Lâm tức là chùa Tỉnh Hội cũ (nay là trụ sở Thành hội Phật giáo thành phố Đà Nẵng). Trong thời gian trú trì tại các chùa, ngoài việc hướng dẫn đồ chúng Phật tử tu học, Ngài còn tích cực trùng tu chỉnh trang các ngôi Tự viện ngày một trang nghiêm thanh tịnh. Đặc biệt, đối với ngôi chùa Pháp Lâm – Trụ sở Thành hội, năm 1989, được sự hỗ trợ chư Tôn đức Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Đà Nẵng, Hòa Thượng đã vận động mua thêm phần đất phía sau vườn chùa và xây dựng nhà hậu Tổ và tổ chức khánh thành vào năm 1990 (Canh Ngọ), dưới sự chứng minh của cố Đại lão Hòa Thượng Thích Thiện Siêu. Năm 1991, Ngài khởi công xây dựng Hội trường Ban Trị sự (chùa Pháp Lâm). Năm 2005, ngài khởi công đại trùng tu chánh điện chùa Pháp Lâm, biến ngôi Phạm vũ này trở nên trang nghiêm tráng lệ và được khánh thành vào năm 2009, dưới sự chứng minh của Hòa Thượng Thích Thiện Bình – Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa. Năm 2009, Ngài khai sơn Tịnh Thất Giác Hoàng Viên tại phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn để làm nơi tịnh tu trong những năm cuối đời.
Năm 1992, Ngài được tấn phong lên hàng giáo phẩm Thượng Tọa trong Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ III và giữ chức vụ Trưởng Ban Hướng dẫn Nam Nữ Cư sĩ Phật tử Ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng kiêm Phó đại diện Phật giáo thành phố Đà Nẵng thuộc Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng.
Năm 1997, sau khi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng được tách thành hai đơn vị hành chánh, Phật giáo tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cũng được tách thành hai đơn vị Phật giáo đó là Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam và Thành hội Phật giáo thành phố Đà Nẵng, Hòa Thượng được thỉnh cử làm Phó Trưởng ban Thường trực Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Đà Nẵng.
Năm 2007, Ngài được tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VI và được suy tôn vào Thành viên Hội đồng Chứng minh và suy cử vào Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, giữ chức vụ Trưởng Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Đà Nẵng nhiệm kỳ III (2007-2012).
Trong thời gian đảm nhiệm các chức vụ trên, Hòa thượng đã cùng chư Tôn đức trong Ban Trị sự lèo lái con thuyền Giáo hội hoàn thành các công tác Phật sự quan trọng như:
-Năm 1996, tại Đại Giới đàn Phước Huệ do Ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng tổ chức, Hòa Thượng được thỉnh cử làm Đệ Nhị tôn chứng.
-Năm 2008, tại Đại Giới đàn Trí Thủ, do Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Đà Nẵng tổ chức, Ngài được thỉnh cử làm Chánh Chủ Đàn và Đệ nhất Giáo Thọ A Xà Lê. Cũng vào năm này, Ngài làm Trưởng Ban tổ chức Đại lễ Phật đản Liên Hiệp quốc tại thành phố Đà Nẵng.
-Năm 2009, tại khóa Hội thảo Hoằng Pháp toàn quốc và năm 2011, khóa Hội thảo Hướng dẫn Phật tử toàn quốc được tổ chức tại thành phố Đà Nẵng, Ngài đều được Ban tổ chức thỉnh làm Chứng minh cho hai khóa hội thảo.
Ngoài những công tác Phật sự được nêu trên, với cương vị Trưởng Ban Trị sự, Hòa Thượng đã sách tấn Tăng, Ni Phật tử tu học đúng chánh pháp, chứng minh, tham dự các Phật sự như: Lễ hội Quán Thế Âm, Thành đạo, Phật Đản, các lễ đặt đá và khánh thành các ngôi tự, viện…
Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo thành phố Đà Nẵng lần thứ IV với sự đóng góp trong sự nghiệp phát triển ngôi nhà chung của Giáo hội và sự nghiệp xây dựng khối Đại Đoàn kết toàn dân tộc, Hòa Thượng được toàn thể Tăng Ni Phật tử thành phố Đà Nẵng tin tưởng, tiếp tục đảm nhiệm chức vụ Trưởng Ban Trị sự THPG Đà Nẵng nhiệm kỳ 2012-2017. Do vậy, trong kỳ Đại hội này, Hòa Thượng đã được Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam trao tặng bằng Tuyên dương công đức.
Về mặt xã hội, Ngài là ủy viên của UBMTTQVN thành phố Đà Nẵng, thành viên Hội Khuyến học thành phố.
Với sự đóng góp to lớn của Hòa Thượng đối với Đạo pháp và Dân tộc, nhân Lễ Kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa Thượng được Chủ Tích nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Huân chương Đại Đoàn kết dân tộc và bằng khen của UBMTTQVN thành phố Đà Nẵng vì sự nghiệp xây khối Đại đoàn kết dân tộc năm 2011.
Với tinh thần tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức, Hòa Thượng đã tổ chức các khóa an cư kiết hạ cho chư Tăng tại chùa Pháp Lâm và tổ chức các khóa tu Bát Quan Trai cho đạo hữu Phật tử trong thành phố về tu học.
Đệ tử xuất gia của Hòa Thượng hiện nay có nhiều vị đang hành đạo tại các chùa và tu học tại bổn tự có những vị hiện đang là Ủy viên Ban Trị sự Thành Hội Phật giáo Đà Nẵng.
Trong những năm cuối đời, dù tuổi già sức yếu, hòa thượng vẫn động viên chư tôn đức trong Ban Trị sự cố gắng hoàn thành các Phật sự, nhắc nhỡ chư Tăng Ni, Phật tử tu học, trao dồi giới đức, tích cực tham gia các công tác từ thiện để lợi đạo ích đời.
Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Thìn (23/11/2012), vào lúc 09 giờ 20 phút, Hòa Thượng đã thâu thần viên tịch, để lại biết bao niềm kính tiếc cho đồ chúng.
Với 83 tuổi đời, 44 hạ lạp, Hòa Thượng đã một đời hiến mình cho đạo pháp và dân tộc. Ngài ra đi đã để lại sự mất mác vô cùng to lớn đối với Giáo hội và Tăng Ni, Phật tử Đà thành, sự tiếc nuối vô hạn đối với môn đồ pháp quyến. Cũng trong buổi lễ kỷ niệm húy nhật, với lòng thành kính, môn đồ pháp quyến đã thiết lễ dâng lên cúng dường chư tôn đức Tăng, ni hiện tiền để tỏ lòng tri ân, đồng nhất tâm hướng về Giác linh ân sư nguyện cầu cao đăng Phật quốc, hồi nhập Ta ba tùy duyên hóa độ.
Một số hình ảnh ghi nhận được :
Tin, ảnh : Ban TT-TT Phật Giáo Đà Nẵng.