Sáng ngày 26/04/2021 ( nhằm ngày 15/03 Tân Sửu ) tại chùa Phổ Đà số 340 Phan Châu Trinh phường Bình Thuận quận Hải Châu Tp. Đà Nẵng, tông môn pháp phái đã long trọng tổ chức kỷ niệm húy nhật Cố trưởng lão Hòa thượng Thích Tôn Thắng – vị danh tăng Việt Nam thế kỷ 20 – khai sơn tổ đình Diệu Pháp – Chùa Phổ Đà Tp. Đà Nẵng và Chùa Tịnh Độ – Tp. Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam.
Quang lâm chứng minh niêm hương tưởng niệm có chư Tôn đức Chứng minh BTS, Thường trực Ban Trị sự Phật giáo thành phố, BTS các quận huyện; chư Tăng Ni trụ trì các tự viện; Ban Giám hiệu, TNS trường TCPH Đà Nẵng; môn đồ pháp phái Phổ Thiên tại các tỉnh thành và đông đảo Phật tử về tham dự.
Cố Hòa thượng Thích Tôn Thắng, Pháp danh Trừng Kệ, Pháp tự Như Nhu, thế danh là Dương Văn Minh, sinh ngày 29 tháng 2 năm Kỷ Sửu (1889) tại làng Hà My, tổng Bích La, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, thân phụ là cụ ông Dương Văn Hiếu và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Tiện. Ngài sinh trong một gia đình thâm Nho học tín Phật. Ngài được nuôi dạy theo khuôn mẫu, nên buổi thiếu thời Ngài đã sớm được tiếp cận với kinh sách thánh hiền.
Năm 1904, lúc lên 16 tuổi, Ngài được phép mẫu thân đến cầu xuất gia với Hòa thượng Tâm Truyền, Tăng Cang chùa Báo Quốc và được Hòa thượng cho Pháp danh Trừng Kệ. Năm Bính Ngọ (1906), Ngài được Bổn sư cho thọ Sa-di giới và được Pháp tự là Như Nhu. Năm Quý Hợi (1923), Ngài 34 tuổi, mới thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn chùa Phước Quang, tỉnh Quảng Ngãi do Hòa thượng Hoằng Tịnh làm Đàn đầu truyền giới. Năm Giáp Tý (1924), Ngài đến cầu pháp với Hòa thượng Phước Trí chùa Tam Thai, núi Ngũ Hành, Quảng Nam được Hòa thượng phú pháp với Pháp hiệu là Tôn Thắng. Năm Canh Ngọ (1930), Ngài đảm đương trụ trì chùa Phổ Thiên, đồng thời được Giáo hội Tăng già Đà Nẵng cung thỉnh giữ chức vụ Kiểm Tăng. Năm Nhâm Thân (1932), hưởng ứng phong trào chấn hưng Phật giáo nổi lên ở khắp ba miền đất nước, Ngài đứng ra sáng lập Đà Thành Phật học Hội và cung thỉnh Hòa thượng Bích Liên làm Hội trưởng. Trụ sở đặt tại chùa Phổ Thiên và cho xuất bản tạp chí Tam Bảo làm cơ quan ngôn luận chính thức của Hội trong việc hoằng dương chánh pháp.
Năm Ất Hợi (1935), Ngài vào khai sơn chùa Tịnh Độ tại thị xã Tam Kỳ, nay là trường Cơ bản Phật học của tỉnh Quảng Nam. Năm Bính Tý (1936), để phát triển việc hoằng hóa Ni giới, cũng tại làng Bình Thuận – Đà Nẵng, Ngài lại khai sơn chùa Diệu Pháp để làm Phật học Ni viện.
Năm Bính Tuất (1946) ý thức về tiền đồ Phật giáo mai sau, Ngài quyết định hiến cúng chùa Phổ Thiên (sau là chùa Phổ Đà) cho Giáo hội để mở Phật học viện có tầm vóc quy mô hơn. Đó chính là chi nhánh Phật học viện Trung phần ở Trung Trung bộ. Năm Giáp Thìn (1964), Ngài được tiến cử làm Chứng minh Đạo sư Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thị xã Đà Nẵng. Năm Bính Ngọ (1966), Ngài được tiến cử vào Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Năm Canh Tuất (1970), Ngài làm Chánh chủ Đàn tại Đại giới đàn Vĩnh Gia, được tổ chức tại chùa Phổ Đà – Đà Nẵng (chùa Phổ Thiên trước đây).
Năm Bính Thìn (1976) Ngài được thỉnh làm thành viên Hội đồng Giáo phẩm Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Ngày 16 tháng 3 năm Bính Thìn (1976), Ngài an nhiên thị tịch, trụ thế 87 năm, giới lạp 53 tuổi hạ.
Hình ảnh ghi nhận :
Tin, ảnh : Ban TTTT PG Đà Nẵng